Các nhà khoa học gốc Việt ở Mỹ có nhiều đóng góp cho nước Mỹ
Nhandan.org.vn, cập nhật 6 giờ 48 - 19-11-2003
Các nhà khoa học Mỹ gốc Việt đã có nhiều đóng góp trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội của nước Mỹ, đánh giá này đã được nêu lên tại một cuộc hội thảo về những đóng góp cho nước Mỹ của những người gốc Á trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật do Hiệp hội Công nghệ khoa học, Cơ khí và Máy tính Việt - Mỹ (VACSETS) tổ chức tại Mỹ.
Theo tài liệu tại hội thảo, hiện có khoảng 1,5 triệu người Việt sinh sống tại Mỹ, trong đó chuyên gia chiếm 10,7%; số người đã tốt nghiệp trung học khoảng 59% và số người có bằng tốt nghiệp đại học chiếm 15,9%. Ước tính có khoảng hơn 280 nhà phát minh người Mỹ gốc Việt được cấp bằng sáng chế của Mỹ. Tiêu biểu là tiến sĩ Đoàn Trung của Tập đoàn Micron có tới 72 bằng sáng chế.
Y tế là một trong những lĩnh vực mà những người Việt Nam thể hiện khả năng vượt trội. Số người Việt Nam hoạt động trong ngành y đã lên đến 2.500 người, trung bình cứ 1.000 người dân Mỹ gốc Việt có 3,5 bác sĩ. Nhiều giáo sư Việt Nam có các công trình khoa học có giá trị cao, điển hình là Tiến sĩ Nghiêm Đại Đạo - người tham gia vào một số sáng kiến cấy ghép dịch tụy cho những bệnh nhân mắc bệnh đái đường; Giáo sư Nguyễn Hữu Xương, người có phát minh nổi tiếng đóng góp rất nhiều cho việc nghiên cứu cấu trúc protein trong căn bệnh ung thư. Phòng khám của Giáo sư Xương chính thức được Viện Y tế Quốc tế (NIH) công nhận là Trung tâm Nghiên cứu Quốc gia. Ở thủ đô Washington, trong danh sách những bác sĩ hàng đầu do đồng nghiệp bỏ phiếu hằng năm có tên của tiến sĩ Việt Nam Trịnh Đức Phương, bác sĩ chuyên khoa lây nhiễm.
Ở lĩnh vực khoa học hàng không, không gian, trong số những người tốt nghiệp khóa đào tạo chuyên gia hàng đầu tại Viện Khoa học Hàng không nước Mỹ tại Colorado Springs cũng có người Việt. Đó là Tiến sĩ Eugene Trịnh, người đã cùng tàu con thoi bay lên quỹ đạo thực hiện những thí nghiệm được đưa vào kỷ lục nghiên cứu; Nguyễn Mạnh Tiến, người được trao tặng một số giải thưởng cao quý và là thành viên của Phòng nghiên cứu động cơ phản lực của NASA và tham gia vào Hội đồng cố vấn hệ thống dữ liệu không gian CCSDS. Trong ngành công nghiệp máy bay, tiến sĩ Cai Văn Khiêm có nhiều bằng phát minh và trở thành kỹ sư trẻ nhất từ trước tới nay nắm giữ vị trí Chủ nhiệm về công nghệ tại Công ty chế tạo máy bay Hughes.
Nhiều giáo sư Việt Nam đã tham gia giảng dạy tại các trường đại học và trung học như giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng ở Đại học George Mason, giáo sư Cao Hữu Trí tại Đại học bang California ở San Diego và giáo sư Hoàng Văn Đức ở Đại học Y Nam California. Ở Đại học Notre Dame tại South Bend, Indiana, tiến sĩ Lê Trãi là nữ giáo sư đầu tiên được bổ nhiệm làm giáo viên chính ngạch của ngành luật, đã có thâm niên 20 năm trong ngành luật thương mại.
Các nhà khoa học gốc Việt tại Mỹ còn có những đóng góp trên các lĩnh vực tài chính, khoa học công nghệ. Ở Canada, bà Hoàng Thiếu Quân đã trở thành người phụ nữ đầu tiên đảm nhận chức vụ giám đốc tài chính của hội đồng thành phố Montreal. Một tài năng khác không thể không nhắc tới là tiến sĩ Nguyễn Tuệ, người giữ kỷ lục của Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) khi giành được 7 bằng của viện chỉ trong vòng 7 năm học: bằng cử nhân trong các lĩnh vực khoa học vật lý, toán học, điện tử; bằng thạc sĩ và tiến sĩ vật lý hạt nhân. Cũng đậu tiến sĩ vật lý hạt nhân của MIT, ông Đoàn Liên Phùng đã lập ra một công ty riêng, chuyên cố vấn về năng lượng và môi trường. Hiện nay, công ty này đã có 300 kỹ sư và nhà khoa học làm việc ở bảy văn phòng trên nước Mỹ. Ông Phùng và vợ còn lập ra một Quỹ khuyến học trị giá lên tới hơn 1 triệu USD, mỗi năm có 500 suất học bổng dành cho sinh viên ở Việt Nam. Một thí dụ khác là ông Đinh Đức Hữu, hiện đã về Việt Nam đầu tư. Công ty Công nghệ Việt Mỹ ở Tennessee của ông Hữu rất phát đạt trong lĩnh vực năng lượng và từng được nhận giải Doanh nghiệp nhỏ xuất sắc của năm 1995 với doanh thu lên tới 20 triệu USD.
(TTXVN)