Hội thảo về kinh nghiệm cải cách của Việt Nam và Trung Quốc

Nhandan.org.vn, cập nhật 18 giờ 4 - 17-11-2003

Hội thảo lý luận với chủ đề: "Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường - kinh nghiệm của Trung Quốc, kinh nghiệm của Việt Nam" vừa được tổ chức tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Tại hội thảo, đại diện hai nước đã trình bày 20 bản báo cáo khoa học (Việt Nam: chín, Trung Quốc: 11). Chúng tôi xin lược thuật giới thiệu cùng bạn đọc một số nội dung chính được đề cập trong các ý kiến phát biểu tham luận cùng các bài viết gửi tới Hội thảo.

Phát triển kinh tế thị trường XHCN (Trung Quốc) và kinh tế thị trường định hướng XHCN (Việt Nam) là yêu cầu tất yếu, là bước đột phá về tư duy lý luận của hai Ðảng

Theo báo cáo đề dẫn của đồng chí Lưu Vân Sơn, Trung Quốc chính thức khởi xướng cải cách, mở cửa từ Hội nghị T.Ư 3 (khóa XI - 1978). Hội nghị đã đề ra quyết sách chiến lược chuyển từ tình trạng kinh tế bị kìm hãm do các mặt trái của cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cải cách, mở cửa bằng thể chế kinh tế định hướng thị trường. Cuộc cải cách bắt đầu từ nông thôn, thực hiện chế độ khoán hộ gia đình, cho phép nông dân được hưởng quyền tự chủ sản xuất lớn hơn. Chính sách này tác động mạnh mẽ tinh thần tích cực của nông dân. Công cuộc cải cách được Ðại hội XII của Ðảng (1982) chủ trương tiếp tục đẩy mạnh. Ðại hội khẳng định xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc và nêu nguyên tắc: "Kinh tế kế hoạch là chính, điều tiết thị trường là phụ". Hội nghị T.Ư 3 (khóa XII) quyết định cải cách thể chế kinh tế, chỉ rõ kinh tế hàng hóa trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Ðại hội XIII (1987) xác định mô hình quản lý kinh tế: "Nhà nước điều hành thị trường, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp", làm cho cuộc cải cách kinh tế tiến thêm một bước quan trọng. Tại Ðại hội XIV (1992), Trung ương Ðảng trình bày Báo cáo chính trị về lý luận xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc. Ðại hội chính thức khẳng định xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN là mục tiêu của cuộc cải cách thể chế kinh tế Trung Quốc và đề ra con đường thực hiện mục tiêu này một cách có hệ thống. Ðây là bước ngoặt quan trọng trong đường lối cải cách, mở cửa của Trung Quốc. Ðại hội XV (1997), Ðảng xác định tiến trình lịch sử của giai đoạn đầu XHCN ở Trung Quốc diễn ra ít nhất phải 100 năm. Trong 100 năm ấy, nhiệm vụ cơ bản của CNXH là phát triển sức sản xuất. Từ đó mà Ðảng định ra đường lối lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm. Ðại hội XVI (2002), Ðảng Cộng sản Trung Quốc tổng kết lý luận, đề ra tư tưởng quan trọng "kiên trì lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, không ngừng giải phóng và phát triển sức sản xuất xã hội".

Với chủ đề "Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam; quan niệm và giải pháp" báo cáo đề dẫn của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, nêu ba luận điểm lớn trả lời cho câu hỏi vì sao Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN và khẳng định:

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Ðại hội VI Ðảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12 - 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng CNXH. Ðại hội đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng CNXH, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Ðại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội. Ðại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Ðảng Cộng sản Việt Nam về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Ðó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và công sức của toàn Ðảng, toàn dân trong nhiều năm.

Hội nghị T.Ư 6 (tháng 3-1989) khóa VI, phát triển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH, coi "chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH".

Ðến Ðại hội VII (tháng 6-1991), Ðảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên CNXH của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH của Ðảng khẳng định: "Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Ðại hội VIII của Ðảng (tháng 6-1996) đưa ra một kết luận mới rất quan trọng: "Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng". Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm "kinh tế thị trường". Phải đến Ðại hội IX của Ðảng (tháng 4-2001) mới chính thức đưa ra khái niệm "kinh tế thị trường định hướng XHCN". Ðại hội khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam. Ðây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Ðảng Cộng sản Việt Nam (Xem toàn văn Báo cáo đề dẫn Hội thảo đăng trên báo Nhân Dân số ra ngày 12-11-2003).

Sự phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam và KTTT XHCN ở Trung Quốc đều là tất yếu khách quan, và do lợi ích sống còn của chế độ XHCN quy định, phù hợp với tình hình mỗi nước. Ðồng chí Lưu Vân Sơn, dẫn lời đồng chí Giang Trạch Dân khẳng định rằng, KTTT XHCN ở Trung Quốc không phải là "Vẽ rắn thêm chân" mà thật sự là "vẽ rồng, điểm mắt".

Từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN (Trung Quốc) và từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (Việt Nam)

Ðây là nội dung quan trọng thứ hai mà cuộc hội thảo lý luận giữa Ðảng Cộng sản Trung Quốc và Ðảng ta đặt ra. Giáo sư Hàn Bảo Giang, Chủ nhiệm phòng vi mô, Ban kinh tế học, Trường Ðảng T.Ư Ðảng Cộng sản Trung Quốc trong tham luận về quá trình thể chế kinh tế Trung Quốc chuyển sang thị trường hóa và những vấn đề tồn tại trong thể chế hiện hành. Tiêu chuẩn đánh giá cải cách, phải xem "có lợi cho phát triển lực lượng sản xuất XHCN hay không; có lợi cho tăng cường sức mạnh tổng hợp của Nhà nước XHCN hay không, có lợi cho nâng cao mức sống của nhân dân hay không".

Dưới sự chỉ đạo của nguyên tắc này, cuộc cải cách theo hướng thị trường hóa của thể chế kinh tế Trung Quốc đã đi con đường "cải cách từng bước" và "dò đá qua sông", trước nông thôn, sau thành thị; trước thí điểm, sau nhân rộng; trước đặc khu, sau cả nước. Trước hết, tại nông thôn, bắt đầu từ năm 1978, xoay quanh vấn đề phát triển sản xuất nông nghiệp và huy động đông đảo nông dân hăng hái sản xuất, đã thực hiện chế độ khoán hộ gia đình, và thông qua cơ chế lợi ích "nộp đủ cho Nhà nước và tập thể, còn lại tất cả là của mình", phát huy được tính tích cực của đông đảo quần chúng nông dân. Thứ hai, tại thành thị, bắt đầu từ năm 1980, thực hiện cải cách thể chế kinh tế lấy cải cách doanh nghiệp quốc hữu làm khâu trung tâm. Từ "giao quyền nhường lợi" đến "nộp lãi thay nộp thuế", từ "nộp lãi thay nộp thuế" đến "chế độ giao khoán", từ "chế độ giao khoán" đến "thí điểm cải cách chế độ cổ phần liên quan đến cải cách quyền sở hữu tài sản", từ "thí điểm chế độ cổ phần" đến "xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại", từ "xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại" đến "điều chỉnh cơ cấu kinh tế quốc hữu", và cuối cùng đến cải cách thể chế quản lý tài sản quốc hữu, sự cải cách theo hướng thị trường hóa của doanh nghiệp quốc hữu không ngừng đi vào chiều sâu.

Qua 24 năm cải cách theo hướng thị trường hóa (từ năm 1978 đến nay), sự đổi mới của thể chế kinh tế Trung Quốc đã có những tiến triển mang tính đột phá, bước đầu hình thành bộ khung cơ bản của thể chế KTTT XHCN.

Việc từng bước xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, một số bài viết lý giải đó là quá trình đổi mới thể chế kinh tế hình thành khung pháp lý của nền KTTT định hướng XHCN; tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường cùng với khuôn khổ pháp lý của nó; tạo lập cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước; đổi mới kế hoạch hóa trong nền KTTT và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Theo đó, thể chế kinh tế mới ở Việt Nam được quan tâm xây dựng như một tất yếu ở trong các ngành và các lĩnh vực kinh tế, từ việc hoàn thiện khoán sản phẩm đến hộ nông dân, đổi mới kế hoạch hóa, chấp nhận cơ chế thị trường, giá cả thị trường, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường đến các chính sách cơ bản phát triển nền KTTT định hướng XHCN đều được pháp luật hóa từng bước. Các chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế của Ðảng đều được Nhà nước thể chế hóa thành luật, văn bản dưới luật, hoặc các nghị định, quyết định, chỉ thị của Chính phủ. Ðây chính là khung pháp lý thúc đẩy phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Về chế độ kinh tế cơ bản, chế độ phân phối

Ðồng chí Vương Thiên Nghĩa, Giáo sư, Chủ nhiệm Phòng nghiên cứu chính sách, Ban Kinh tế học, Trường Ðảng T.Ư ÐCS Trung Quốc cho biết: Ðại hội XVI của Ðảng Cộng sản Trung Quốc nhấn mạnh chế độ kinh tế cơ bản của Trung Quốc là lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển, nhấn mạnh tiếp tục điều chỉnh bố cục và kết cấu kinh tế quốc hữu, cải cách thể chế quản lý tài sản quốc hữu là nhiệm vụ quan trọng của đi sâu cải cách thể chế kinh tế. Lý giải và nắm bắt chế độ kinh tế cơ bản và cải cách kinh tế quốc hữu là một mặt quan trọng trong lý giải và nắm bắt cải cách thể chế kinh tế và diễn biến cơ cấu kinh tế xã hội Trung Quốc. Lấy chế độ công hữu làm chủ thể, không phải là lấy kinh tế quốc hữu làm chủ thể. Từ khi cải cách, mở cửa đến nay, kết cấu chế độ sở hữu của Trung Quốc đã có thay đổi quan trọng, chế độ công hữu xuất hiện nhiều hình thức đa dạng, nó vừa bao gồm kinh tế quốc hữu và kinh tế tập thể, cũng bao gồm cả thành phần quốc hữu và thành phần tập thể trong kinh tế hỗn hợp. Lấy chế độ công hữu làm chủ thể, là nói chung cả nền kinh tế quốc dân, và cũng không yêu cầu mỗi ngành, mỗi khu vực, mỗi doanh nghiệp đều phải lấy chế độ công hữu làm chủ thể. Lấy chế độ công hữu làm chủ thể, mấu chốt là khả năng kiểm soát kinh tế quốc hữu đối với kinh tế quốc dân, khả năng kiểm soát của kinh tế quốc hữu đối với kinh tế quốc dân là cơ sở và đảm bảo cho địa vị chủ thể của nền kinh tế công hữu. Ðối với kinh tế phi công hữu, Chính phủ Trung Quốc khuyến khích, ủng hộ và hướng dẫn kinh tế phi công hữu phát triển. Trung Quốc áp dụng nhiều hình thức phân phối trong đó lấy phân phối theo lao động làm chủ thể, chú ý các yếu tố sản xuất và yếu tố cống hiến trong phân phối.

Một số bài viết của các đồng chí trong đoàn Việt Nam nêu rõ rằng: Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận về vấn đề sở hữu, việc xác định cơ cấu các thành phần kinh tế ở Việt Nam cũng có những thay đổi cơ bản. Từ quan niệm về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH là một nền kinh tế chỉ có hai thành phần XHCN (kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể) đã đi đến quan niệm về một nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Mỗi thành phần đều là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân; các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển, cùng hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Phần sở hữu nhà nước có thể được sử dụng ở nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, với nội dung là đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới; các doanh nghiệp nhà nước phải tập trung vào một số ngành và lĩnh vực then chốt, vừa chi phối được nền kinh tế, vừa bảo đảm an ninh quốc phòng và phục vụ lợi ích công cộng. Từ những nhận thức mới về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế, kéo theo nó là sự nhận thức mới về cơ chế quản lý kinh tế và chế độ phân phối. Về cơ chế quản lý kinh tế, từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, căn bản không sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quan hệ thị trường; đã chuyển sang từng bước thực hiện cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Về quan hệ phân phối, từ chỗ xác định chỉ có một nguyên tắc của CNXH là phân phối theo lao động, đã chuyển sang thực hiện nhiều hình thức phân phối, phù hợp với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp của các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội; đi liền với chính sách điều tiết thu nhập, thực hiện bảo hiểm xã hội cho người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế.

Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, giải quyết mối quan hệ giữa cải cách, đổi mới, ổn định và phát triển

Quan điểm của Trung Quốc được nêu trong các tham luận là, việc xây dựng thể chế KTTT XHCN liên quan các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Ðó là một công trình tổng thể phức tạp, cũng là sự đổi mới xã hội sâu sắc. Các tham luận của Ðoàn Việt Nam cũng nêu rõ chủ trương của Ðảng ta: tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, coi đó là nội dung rất quan trọng của định hướng XHCN, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới, nhằm tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển sản xuất, thực hiện sự bình đẳng và điều tiết các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng, giữ vững môi trường ổn định chính trị, xã hội.

Chung quanh vấn đề phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, một số bài viết của các nhà khoa học Trung Quốc phân tích sâu chính sách phân phối thu nhập của Trung Quốc gồm sáu giai đoạn, từ Hội nghị T.Ư 3 khóa XI của Ðảng Cộng sản Trung Quốc tháng 12-1978 đến Ðại hội XVI của Ðảng, tháng 11-2002. Từ việc khắc phục chủ nghĩa bình quân, trước hết lấy nông thôn làm khâu đột phá thi hành chế độ khoán sản phẩm tới hộ, từng bước Trung Quốc phá bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện nguyên tắc "ưu tiên hiệu suất, tính công bằng" nhằm huy động tính chủ động và sáng tạo của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Vừa chống chủ nghĩa bình quân lại phòng ngừa thu nhập chênh lệch quá lớn. Phân phối lần đầu cần phải coi trọng hiệu suất, phát huy tác dụng của thị trường, khuyến khích một bộ phận người giàu lên trước thông qua lao động thành thực và kinh doanh hợp pháp. Tái phân phối cần phải coi trọng công bằng, tăng cường chức năng điều tiết của Nhà nước trong phân phối thu nhập, điều tiết chênh lệch quá lớn về thu nhập. Mặc dù không đi sâu phân tích mối quan hệ gắn phát triển kinh tế với phát triển kinh tế - xã hội, nhưng các bài viết của một số đồng chí Trung Quốc khi đề cập vấn đề này đều cho rằng: kinh tế tăng trưởng là cơ sở của sự phát triển, vừa thể hiện sự tăng trưởng của tổng lượng kinh tế, lại thể hiện mức tăng bình quân đầu người và sự cải thiện chất lượng của cuộc sống. Về vai trò của kinh tế dân doanh Trung Quốc, có ý kiến cho rằng, nhờ loại hình kinh tế này phát triển mà tăng thêm cơ hội việc làm, tăng thêm thu nhập cho người dân và giữ gìn ổn định xã hội, thúc đẩy KTTT phồn vinh. Với Trung Quốc nó trở thành động lực chủ yếu thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.

Phân tích khá sâu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong quá trình phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, Giáo sư, Viện sĩ Nguyễn Duy Quý, Ủy viên Hội đồng lý luận T.Ư có cách nhìn mới. Theo Giáo sư, Viện sĩ thì giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội có mối tương tác khá đặc biệt. Tăng trưởng kinh tế đem lại những giá trị vật chất to lớn chính là điều kiện để thực hiện công bằng xã hội. Nếu không có những điều kiện kinh tế tối thiểu đảm bảo thì tiến bộ và công bằng xã hội rất khó được thực hiện. Kinh tế càng phát triển, càng có điều kiện thuận lợi hơn để hoạch định và thực thi các chính sách về công bằng xã hội. Ngược lại, công bằng xã hội có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Nhờ khả năng có thể tạo ra một xã hội hòa hợp, lành mạnh và ổn định - một xã hội mà mỗi cố gắng, mỗi đóng góp đều sẽ được đánh giá một cách thỏa đáng. Công bằng xã hội có thể tạo ra một xã hội hài hòa giữa những lợi ích cá nhân và cộng đồng. Công bằng xã hội, trên thực tế, vừa là điều kiện quan trọng để tạo ra ổn định xã hội, vừa là một động lực để tăng trưởng kinh tế. Giáo sư, Viện sĩ Nguyễn Duy Quý nêu rõ: "... Trong điều kiện chuyển sang nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, trước nhu cầu bức bách phải thu hút vốn đầu tư để có điều kiện mở rộng sản xuất thì ngoài phân phối theo lao động, phân phối theo vốn và nguồn lực khác vào sản xuất là hết sức cần thiết để thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng kinh tế, phải được coi là công bằng. Ðây chính là quan niệm mới về sự thực hiện công bằng xã hội trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Nhưng khi nền KTTT có sự tăng trưởng khá thì cũng là khi mặt tiêu cực của nó tác động tương đối mạnh đến các mặt của đời sống xã hội. Tăng trưởng kinh tế nhanh trong điều kiện cơ chế thị trường đã làm cho bảng giá trị của xã hội, trong một số trường hợp, biến động theo chiều hướng tiêu cực. Bất công xã hội có nguy cơ tăng lên. Những hành vi phản văn hóa, những biểu hiện của lối sống thực dụng, quay lưng lại với những giá trị truyền thống... cũng nảy sinh trong đời sống xã hội. Ðã xuất hiện và nảy sinh mâu thuẫn giữa sự tăng trưởng kinh tế với phân phối các giá trị vật chất cũng như giá trị tinh thần do tăng trưởng kinh tế đem lại. Trong số các vấn đề xã hội cần quan tâm thì công bằng xã hội là một trong những vấn đề đáng lưu tâm nhất. Kinh tế càng tăng trưởng thì vấn đề công bằng xã hội càng được đặt ra một cách bức xúc, vì thế Ðảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương đúng đắn và trên thực tế đã và đang giải quyết những vấn đề nổi cộm một cách có hiệu quả.

Rút kinh nghiệm từ những bài học đắt giá trong việc hoạch định chính sách phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam đã chủ trương coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội; không chờ tới khi kinh tế phát triển cao rồi mới thực hiện các chính sách về công bằng xã hội, mà ngay từ khi bắt đầu tiến hành đổi mới đã phải kết hợp các nhiệm vụ kinh tế với các nhiệm vụ xã hội; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới chính sách kinh tế với đổi mới chính sách xã hội, coi đó là một phương thức để thực hiện công bằng xã hội.

Thực tiễn trên đã chứng tỏ rằng khi có chính sách xã hội đúng đắn đi liền với chính sách tăng trưởng kinh tế thì có thể khắc phục được những mặt tiêu cực của KTTT mà không làm mất đi tính năng động và hiệu quả của bản thân cơ chế thị trường. Ðó chính là nguyên nhân đã khiến cho cộng đồng quốc tế đánh giá cao kết quả của việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam".

Từ thực tiễn cải cách, đổi mới của mình, nhiều tham luận của Ðoàn Trung Quốc nhấn mạnh kinh nghiệm quý trong phát triển nền KTTT, đó là phải luôn luôn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa "cải cách, phát triển, ổn định". "Cải cách là động lực, phát triển là mục tiêu, ổn định là tiền đề". Ðồng chí Lưu Vân Sơn đã phân tích sâu sắc bài học kinh nghiệm này: "Cải cách, phát triển và ổn định như là ba quân cờ chiến lược gắn bó khăng khít với nhau trên bàn cờ xây dựng hiện đại hóa của Trung Quốc, mỗi nước cờ đều đi đúng chỗ và thúc đẩy lẫn nhau thì sẽ làm sống cả ván cờ. Nếu nước cờ nào đi không đúng chỗ, thì hai nước cờ khác cũng sẽ sa vào cảnh khó khăn, sẽ có thể làm hỏng cả ván cờ. Cải cách, phát triển và ổn định có mối liên hệ bên trong không thể tách rời nhau, cải cách là động lực, phát triển là mục đích, ổn định là tiền đề. Trung Quốc giải quyết vấn đề gì đều phải dựa vào sự phát triển của bản thân mình, cần phải kiên trì lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, coi phát triển là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Ðảng trong việc cầm quyền và chấn hưng đất nước, nắm bắt mọi cơ hội, đẩy nhanh bước phát triển. Cải cách là con đường tất yếu để xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT XHCN, cần phải đẩy mạnh cải cách về các mặt một cách toàn diện, kiên quyết xóa bỏ tệ nạn mang tính thể chế ảnh hưởng đến sự phát triển. Ổn định là trên hết, không có môi trường chính trị - xã hội ổn định thì khó có thể nói đến những thứ khác, và quy hoạch cải cách và phát triển dù tốt đến mấy cũng khó thực hiện được. Chúng tôi căn cứ vào tình hình cụ thể của từng thời kỳ khác nhau, nắm bắt toàn cục, dày công tính toán, làm cho cường độ cải cách, tốc độ phát triển và khả năng có thể chịu đựng của xã hội được thống nhất hài hòa với nhau, coi việc không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân là điểm kết hợp quan trọng trong việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa cải cách, phát triển và ổn định, đẩy mạnh cải cách và phát triển trong ổn định xã hội, gìn giữ ổn định xã hội và yên ổn lâu dài của đất nước trong cải cách và phát triển".

Mỗi tham luận nêu một vấn đề và có thể cùng một vấn đề nhưng nhìn nhận dưới góc độ khác nhau, song đều khẳng định KTTT XHCN, hay KTTT định hướng XHCN đều chủ trương phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa - xã hội. Có giải quyết tốt mối quan hệ cải cách, đổi mới, ổn định và phát triển thì nền kinh tế ấy mới phát triển bền vững.

Sự lãnh đạo của Ðảng và vai trò quản lý của Nhà nước

Ðây là vấn đề được nhiều tham luận đề cập. Ðoàn Trung Quốc đã thể hiện phân tích chủ trương thực hiện hiệp thương chính trị do Ðảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, "Chính trị thông suốt, nhân dân hòa thuận", "quyết không thực hiện chế độ đa đảng và tam quyền phân lập", "quyết không làm tư hữu hóa". Ðảng Cộng sản Trung Quốc luôn luôn là hạt nhân lãnh đạo của sự nghiệp XHCN đặc sắc Trung Quốc... đại diện cho lợi ích căn bản của đông đảo nhân dân Trung Quốc. Phát triển KTTT vừa mang lại sức sống mới cho việc xây dựng bản thân của Ðảng Cộng sản Trung Quốc, đồng thời cũng khiến Ðảng đứng trước những thách thức gay go. Việc phát triển KTTT đặt việc xây dựng Ðảng vào môi trường mới và phức tạp. Ðảng phải cải cách phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền, chủ yếu là phải quản lý đất nước theo pháp luật và xử lý tốt mối quan hệ giữa Ðảng với chính quyền. Sự phân hóa về lợi ích xã hội đòi hỏi Ðảng phải điều hòa tốt mối quan hệ lợi ích giữa các nhóm có lợi ích khác nhau; về vấn đề đảng viên nảy sinh tư tưởng mơ hồ trong môi trường KTTT như dao động niềm tin, sùng bái hàng hóa... đặc biệt là hiện tượng tham nhũng tương đối nghiêm trọng đã xuất hiện trong Ðảng. Hàng loạt vấn đề đặt ra yêu cầu Ðảng phải có biện pháp lãnh đạo, ngăn chặn sự tác động của những mặt trái do KTTT gây ra.

Khẳng định vai trò lãnh đạo của Ðảng, sự quản lý của Nhà nước đối với nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, các tham luận của Ðoàn Việt Nam cho rằng: đây là vấn đề có tính nguyên tắc, định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế này. Ðảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối, Nhà nước quản lý bằng pháp luật, chính sách, bằng các công cụ quản lý vĩ mô. Trong báo cáo đề dẫn của Ðoàn Việt Nam do đồng chí Nguyễn Phú Trọng trình bày nhấn mạnh thêm: "Càng đi sâu vào KTTT, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản...".

Bằng lý luận và thực tiễn, Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hữu Nghĩa, Ủy viên T.Ư Ðảng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng lý luận T.Ư đã phân tích vai trò lãnh đạo của Ðảng và quản lý của Nhà nước trong quá trình phát triển KTTT định hướng XHCN. Ðồng chí chỉ rõ bản chất nền KTTT, nhất là các mặt trái của nó và khẳng định: "Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng và vai trò quản lý của Nhà nước chính là tăng cường sự tác động của chính trị XHCN đối với KTTT để thúc đẩy KTTT phát triển đúng định hướng XHCN; ngược lại, sự phát triển của KTTT sẽ buộc Ðảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo, còn Nhà nước phải đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, phải cải cách hành chính cho phù hợp với yêu cầu, quy luật của KTTT.

Như vậy, trong quan niệm của Ðảng Cộng sản Việt Nam và thực tiễn "phát triển nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa" ở Việt Nam vừa qua đã phản ánh sinh động tư tưởng biện chứng rất quan trọng của Lê-nin - tư tưởng về sự tự giác kết hợp các mặt đối lập biện chứng: chủ nghĩa xã hội và KTTT, những mặt đối lập tưởng chừng không thể kết hợp được như "đất với trời", như "nước với lửa". Vấn đề còn lại là ở chỗ kết hợp như thế nào để tạo ra những "âm thanh du dương êm tai" chứ không phải những "điệu nhạc chói tai" như V.I.Lê-nin từng ví von một cách hình ảnh. Vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản và quản lý của Nhà nước XHCN là nhân tố có ý nghĩa quyết định của sự kết hợp đó".

Về vai trò của Nhà nước, các tham luận cũng nêu rõ, khi chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN thì vai trò của Nhà nước đối với kinh tế cũng có sự thay đổi căn bản và theo Giáo sư Lê Hữu Nghĩa thì những thay đổi đó là: Quá trình chuyển Nhà nước từ độc quyền sang quan hệ mới giữa Nhà nước và thị trường ("bàn tay hữu hình" - "bàn tay vô hình"), giữa Nhà nước và doanh nghiệp, giữa Nhà nước và nhân dân trong các hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Nếu trước đây Nhà nước là chủ thể của chế độ sở hữu, thì hiện nay đang giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống đa sở hữu; nếu trước đây là trực tiếp sản xuất kinh doanh, thì hiện nay là thiết kế "luật chơi", hỗ trợ và tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, và nếu trước đây thực hiện kế hoạch hóa trực tiếp, thì hiện nay chuyển sang điều tiết bằng hệ thống công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.

Thực hiện sự lãnh đạo của Ðảng và sự quản lý của Nhà nước sẽ hạn chế được tính tự phát và bảo đảm định hướng XHCN cho sự phát triển của nền KTTT, thực hiện hài hòa giữa chính trị và KTTT, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.

Một số vấn đề bức xúc đặt ra phải giải quyết

Trong các tham luận, cả Trung Quốc và Việt Nam đều nêu những kết quả, thành tựu của nền KTTT nhưng cũng thấy rõ những mặt tiêu cực của nó, song chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn. Ðó là những vấn đề tham nhũng, lãng phí và nhiều biểu hiện tiêu cực khác còn nhức nhối. Ðồng chí Lưu Vân Sơn nêu hàng loạt vấn đề đặt ra cả về lý luận và thực tiễn: "Về xây dựng thể chế KTTT XHCN hoàn thiện mà nói, chúng tôi cũng đang gặp phải nhiều vấn đề lý luận và thực tế quan trọng cần phải giải quyết cấp bách. Ví dụ như, chế độ kinh tế cơ bản, làm thế nào điều chỉnh bố cục kinh tế quốc hữu về chiến lược, thúc đẩy cải cách thể quản lý tài sản quốc hữu; làm thế nào để đưa cải cách doanh nghiệp quốc hữu đi vào chiều sâu, tìm tòi thêm nhiều hình thức thực hiện chế độ công hữu; làm thế nào để hướng dẫn kinh tế phi công hữu phát triển lành mạnh, phát huy đầy đủ vai trò của nó trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và làm sống động thị trường. Về hệ thống thị trường, làm thế nào chấn chỉnh và làm quy phạm hơn trật tự KTTT, kiện toàn hệ thống tín dụng xã hội của KTTT hiện đại; làm thế nào phát triển thị trường yếu tố sản xuất, tạo ra môi trường cho các loại chủ thể thị trường được sử dụng bình đẳng yếu tố sản xuất; làm thế nào đưa cải cách thể chế lưu thông đi vào chiều sâu, phát triển phương thức lưu thông hiện đại, v.v."

Kết thúc bản báo cáo đề dẫn của Ðoàn Việt Nam, đồng chí Nguyễn Phú Trọng cũng chỉ rõ: Phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật thời đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lý luận cũng còn không ít vấn đề phải tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ. Chẳng hạn như: các vấn đề về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; về lao động và bóc lột; về quản lý doanh nghiệp Nhà nước ra sao để nó đóng được vai trò chủ đạo; làm thế nào để thực hiện được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế còn thấp kém; vấn đề bản chất giai cấp công nhân của Ðảng trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần; các giải pháp tăng cường sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chống quan liêu, tham nhũng, v.v...

Thấy rõ những vấn đề tồn tại trong thể chế hiện hành, Giáo sư Hàn Bảo Giang, Chủ nhiệm phòng vi mô, Ban Kinh tế học, Trường Ðảng T.Ư Ðảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định: "Trước hết, chức năng quản lý công cộng của chính quyền lẫn lộn không rõ ràng với chức năng của người sở hữu tài sản Nhà nước, thể chế KTTT quá ưu tiên cho doanh nghiệp quốc hữu và chính quyền can thiệp quá mức đã làm đảo lộn cơ chế phân phối tài nguyên bằng thị trường, làm giảm hiệu quả phân phối tài nguyên, cản trở kinh tế tăng trưởng, làm tổn hại đến an ninh kinh tế Nhà nước. Hiện nay, những vấn đề như kinh tế quốc hữu chiếm tỷ trọng quá cao, mặt trận quá dài, phân bố quá rộng, hiệu quả không cao vẫn rất nổi cộm....

Kết thúc hội thảo cả Trung Quốc và Việt Nam đều thấy rõ hơn ý nghĩa sâu sắc của vấn đề mà hội thảo đưa ra và cả hai bên đều học tập được lẫn nhau những kinh nghiệm quý báu trong việc thực hiện nền KTTT XHCN, hay KTTT định hướng XHCN.

Ban xây dựng đảng
BÁO NHÂN DÂN