Báo cáo của Chính phủ do TT Phan Văn Khải trình bày tại QH khóa X

Thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao chất lượng
phát triển, tạo chuyển biến mới về Kinh tế - Xã hội trong 5 năm mở đầu thế kỷ

Kỳ họp Quốc hội lần này sẽ thảo luận và quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước; trong đó có kế hoạch 5 năm (2001 - 2005) và kế hoạch năm 2002 về phát triển kinh tế - xã hội.

Các vị đại biểu Quốc hội đã nhận được Báo cáo chi tiết (kèm theo phụ lục) về tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước thời kỳ 1996 - 2000 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005, về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2001 và kế hoạch năm 2002 cùng với báo cáo về ngân sách và một số báo cáo bổ sung. Một số báo cáo chính đã được công bố trên báo chí.

Thay mặt Chính phủ, tôi xin trình bày những nhận định tổng quát và một số chủ trương lớn, mong được các vị đại biểu tập trung thảo luận để ra nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 và về nhiệm vụ năm 2002.


Phần thứ nhất

Về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005

I - Đánh giá tổng quát việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000

Kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 được hoạch định khi chúng ta vừa hoàn thành vượt mức kế hoạch 5 năm 1991 - 1995; đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nền kinh tế đang đà phát triển với nhịp độ tăng trưởng ngày càng cao. Trong bối cảnh đó và trước yêu cầu đưa đất nước bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 đã đề ra mục tiêu và các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội với mức phấn đấu rất cao, nhất là về tốc độ tăng trưởng.

Trong hai năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm 1996 - 2000, nhịp độ tăng trưởng kinh tế giảm sút, tuy ở mức nhẹ, nhưng cũng giúp chúng ta nhìn nhận sâu sắc hơn những chỗ yếu của nền kinh tế không bảo đảm sự phát triển bền vững. Hai năm tiếp theo chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực, lại thêm thiên tai gây thiệt hại nặng, nhịp độ tăng trưởng ngày càng giảm và xuống mức thấp nhất vào năm 1999 (chỉ bằng một nửa tốc độ năm 1995). Năm 2000, chúng ta đã chặn được đà giảm sút, nâng được tốc độ tăng trưởng kinh tế lên 6,7%.

Đánh giá tổng quát kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 trong hoàn cảnh phải đương đầu với những khó khăn và biến động bất lợi không lường được trước, có thể rút ra mấy nét lớn:

1. Nền kinh tế tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng tương đối cao: bình quân hàng năm tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 7%, nông nghiệp tăng 5,6%, công nghiệp tăng 13,5%, xuất khẩu tăng 21,5%; nhịp độ tăng trưởng kinh tế của các vùng tương đối đồng đều, đặc biệt là miền núi phía bắc và Tây Nguyên tăng trưởng cao hơn nhịp độ bình quân của cả nước. Tuy tốc độ tăng GDP chưa đạt mức phấn đấu đề ra trong kế hoạch 5 năm (9 - 10%/năm), song đó là một kết quả khả quan trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế của khu vực. Bên cạnh đó, nhiều chỉ tiêu kinh tế vĩ mô có tiến bộ: lạm phát giảm; tỷ giá hối đoái giữ được thế ổn định với sự điều hành phù hợp với thị trường; tỷ lệ tiết kiệm trong nước so với GDP tăng khá; cán cân thương mại được cải thiện, cán cân thanh toán quốc tế có thặng dư; tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP giảm; dự trữ ngoại tệ tăng đáng kể.

Có được những kết quả trên là nhờ nỗ lực phấn đấu của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và những tiến bộ trong công tác quản lý, điều hành của Nhà nước. Nhiều cơ chế, chính sách và biện pháp phát huy nội lực được ban hành, tạo ra bước phát triển mới của các thành phần kinh tế. Vai trò của các doanh nghiệp được xác định rõ hơn. Cùng với việc tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, khôi phục các hợp tác xã theo mô hình mới, tiếp tục phát huy tính năng động của kinh tế hộ, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, khu vực doanh nghiệp tư nhân đã có bước phát triển nhanh. Luật Doanh nghiệp đi vào cuộc sống cùng với việc tăng cường quan hệ tiếp xúc, đối thoại giữa các cơ quan Chính phủ và chính quyền địa phương với các doanh nghiệp đã đem lại không khí mới cho sự phát triển sản xuất kinh doanh. Mặc dù đầu tư nước ngoài giảm sút, nhất là từ khi xảy ra khủng hoảng kinh tế khu vực, song chúng ta vẫn tăng được tổng mức đầu tư xã hội gấp rưỡi 5 năm trước. Nhờ vậy, qua 5 năm, năng lực sản xuất trong nước tăng lên đáng kể, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội được cải thiện, góp phần đưa nền kinh tế vượt qua khó khăn, duy trì và khôi phục nhịp độ tăng trưởng.

Mặt khác, qua những khó khăn trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm, chúng ta nhận thức rõ hơn những mặt yếu kém cơ bản của nền kinh tế, nổi lên là: năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của nhiều doanh nghiệp còn thấp, đặc biệt là hiệu quả của khu vực doanh nghiệp nhà nước; cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch chậm; hệ thống tài chính - tiền tệ chậm đổi mới và phát triển, có những yếu tố thiếu lành mạnh, chưa bảo đảm vững chắc cân đối kinh tế vĩ mô. Tuy có một số tiến bộ bước đầu, nhưng nhìn chung việc khắc phục những mặt yếu còn chậm.

2- Trong điều kiện kinh tế có nhiều khó khăn, chúng ta đã cố gắng dành tâm sức và nguồn lực từ ngân sách nhà nước đồng thời phát huy khả năng của các thành phần kinh tế và nhân dân cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe, giải quyết các vấn đề xã hội. Nếu như trong 5 năm trước, các lĩnh vực này có những mặt giảm sút, thì trong thời gian 1996 - 2000, đã có bước phát triển tương ứng với tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt là chương trình xóa đói, giảm nghèo, tập trung cho những xã miền núi, vùng đồng bào dân tộc, gắn với chương trình giải quyết việc làm được ưu tiên đầu tư và tập trung chỉ đạo đã thu được kết quả nổi bật. Đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở các vùng đều được cải thiện. Những thành tựu đó đã góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững.

Tuy vậy, nhìn chung sự phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội chưa đi kịp yêu cầu, nhất là về chất lượng. Cơ chế, chính sách trong các lĩnh vực này chậm được đổi mới. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc, đặc biệt là các hiện tượng tiêu cực và các tệ nạn đã bị dư luận xã hội phê phán mạnh mẽ, nhưng chưa giải quyết được bao nhiêu, có mặt còn trầm trọng thêm.

3- Công tác quản lý nhà nước và sự điều hành của Chính phủ đã bám sát và nhạy bén với diễn biến của tình hình, có những giải pháp hạn chế tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực, vừa điều chỉnh các cân đối vĩ mô vừa quan tâm các vấn đề bức xúc của các địa phương và cơ sở. Trong khi ứng phó với tình hình trước mắt đang diễn biến phức tạp, Chính phủ đã cố gắng xúc tiến nhiều công việc có ý nghĩa cơ bản, lâu dài về đổi mới và hoàn thiện thể chế theo nghị quyết của Đảng, xây dựng quy hoạch và kế hoạch trung hạn và dài hạn phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội, đồng thời đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, quan tâm chỉ đạo và giải quyết những vấn đề về bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và độc lập chủ quyền quốc gia. Tuy vậy, công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, các bộ và các cấp chính quyền địa phương còn nhiều bất cập, thiếu phối hợp đồng bộ, thiếu kiểm tra, đôn đốc, kỷ luật chấp hành lỏng lẻo, nên còn kém hiệu lực và hiệu quả. Công cuộc cải cách hành chính, xây dựng bộ máy trong sạch, vững mạnh, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí được đề cập nhiều, nhưng việc làm và kết quả còn hạn chế.

II- Mục tiêu tổng quát và các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005

Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 có vị trí rất trọng yếu, tạo tiền đề cho việc thực hiện thắng lợi chiến lược 10 năm 2001 - 2010, một chặng quan trọng trên con đường đi tới mục tiêu xây dựng nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. 5 năm này cũng là thời gian nước ta phải xúc tiến rất khẩn trương việc chuẩn bị thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế.

Nghị quyết Đại hội IX đã xác định mục tiêu tổng quát của Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 là: "Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xóa đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia".

Báo cáo về kế hoạch 5 năm gửi các vị đại biểu Quốc hội đã trình bày các nhiệm vụ chủ yếu và định hướng phát triển của từng ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát nêu trên với những chỉ tiêu phấn đấu như sau:

- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm 7,5%.

- Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2005 dự kiến:

Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 20-21% (năm 2000: 24,3%),

Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38-39% (năm 2000: 36,6%),

Tỷ trọng các ngành dịch vụ 41 - 42% (năm 2000: 39,1%);

- Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 14 - 16%/năm.

- Giảm tỷ lệ sinh bình quân hằng năm 0,05%; tốc độ tăng dân số vào năm 2005 khoảng 1,2%.

- Giải quyết thêm việc làm cho khoảng 7,5 triệu lao động, bình quân 1,4 - 1,5 triệu lao động/năm; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005.

- Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi trung học cơ sở đi học đạt 80%; trong độ tuổi phổ thông trung học đi học đạt 45% vào năm 2005.

- Cơ bản xóa hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 10% (theo chuẩn mới) vào năm 2005.

- Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 22 - 25%, tỷ lệ chết trong trẻ em dưới 1 tuổi xuống còn 3,0% vào năm 2005; đáp ứng 40% nhu cầu thuốc chữa bệnh bằng sản xuất trong nước; nâng tuổi thọ bình quân vào năm 2005 lên 70 tuổi.

- Cung cấp nước sạch cho 60% dân số nông thôn.

Bài học thực tiễn thời gian qua và yêu cầu mới của sự phát triển đất nước đặt ra những vấn đề lớn có ý nghĩa tư tưởng chỉ đạo cho việc thực hiện kế hoạch 5 năm.

Một là, nền kinh tế không thể chỉ dựa vào tăng trưởng về lượng mà phải hết sức coi trọng chất lượng thì mới có thể phát triển nhanh và bền vững. Muốn vậy, phải đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với nhu cầu của thị trường và khai thác được các lợi thế của nước ta, nâng cao trình độ công nghệ và quản lý để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm và của nền kinh tế, bảo đảm hiệu quả cho sự phát triển.

Hai là, phải luôn luôn coi nguồn lực trong nước là quyết định đồng thời tận dụng cơ hội tranh thủ nguồn lực bên ngoài; coi trọng thị trường nội địa, nâng cao sức mua, kích thích nhu cầu tiêu dùng và đầu tư phát triển, đẩy mạnh giao lưu trong nước đi đôi với khai thác, mở rộng thị trường ngoài nước, đột phá các thị trường mới để tăng nhanh xuất khẩu. Tình hình càng phức tạp, càng phải đề cao ý chí tự lực tự cường, ra sức xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh và có hiệu quả. Trong quan hệ đối ngoại, phải đặt lên hàng đầu lợi ích của dân tộc, giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên định về chiến lược nhưng linh hoạt về sách lược.

Ba là, phát huy yếu tố con người với sự phát triển toàn diện cả trí lực, thể lực, nhân cách, luôn luôn kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, coi đó là kế sách bền sâu để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ đó đòi hỏi phải tích cực giải quyết vấn đề việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động, tiếp tục mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, phát triển và nâng cao hiệu quả khoa học - công nghệ, tăng cường chăm sóc, bảo vệ sức khỏe và hoạt động thể dục thể thao, xây dựng nếp sống văn hóa, đồng thời đẩy lùi các tệ nạn xã hội và tội phạm.

Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu và toàn diện, trọng tâm là xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài; đó là động lực quan trọng để giải phóng và phát huy mọi nguồn lực. Đổi mới về kinh tế, xã hội không thể tách rời cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, thật sự phát huy dân chủ và bảo đảm trật tự kỷ cương theo pháp luật trong hoạt động kinh tế, xã hội.

Năm là, trong tình hình hiện nay, đặc biệt là trước những diễn biến rất phức tạp trên thế giới, phải chăm lo nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong mọi tình huống. Trong khi cảnh giác đối phó với những nguy cơ từ bên ngoài đe dọa an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, cần chú trọng hơn nữa củng cố những nhân tố bảo đảm an ninh và trật tự an toàn xã hội ở bên trong, đặc biệt là phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng chính quyền trong sạch, gắn bó với dân, nhất là ở cơ sở và các địa bàn xung yếu.

Phân tích bối cảnh trong nước và quốc tế khi bước vào thực hiện Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, Chính phủ thấy tình hình có nhiều khó khăn hơn trước, nhưng đồng thời cũng có những cơ hội mới, nhất là các tiềm năng có thể phát huy còn lớn. Với sự kiên trì và quyết tâm đẩy mạnh công cuộc đổi mới, chúng ta có khả năng đạt được mục tiêu do Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra. Vì vậy, Chính phủ kiến nghị Quốc hội trước mắt cho giữ mục tiêu và các chỉ tiêu chủ yếu của Kế hoạch 5 năm như Đại hội IX đã thông qua, coi đó là mục tiêu phấn đấu chung cho cả 5 năm. Khi xây dựng và điều hành kế hoạch hàng năm, sẽ căn cứ vào diễn biến tình hình để có những điều chỉnh cụ thể với tinh thần phấn đấu cao nhất để thực hiện mục tiêu của Kế hoạch 5 năm.