Du thảo Báo cáo Đại hội đảng VIIII: Đoàn kết - Dân chủ


(Tiếp theo 7)
Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và tay nghề, nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới; lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Tăng cường đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý và kết nạp đảng viên từ những công nhân ưu tú; thực hiện trí thức hoá công nhân; bảo vệ quyền lợi, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của giai cấp công nhân trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển mạnh.

Đối với giai cấp nông dân, ra sức bồi dưỡng sức dân ở nông thôn, tập trung sự chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, phát triển nông thôn; thực hiện tốt các chính sách về đất đai, phát triển nông nghiệp toàn diện, tiêu thụ nông sản hàng hoá, bảo hiểm sản xuất và bảo hiểm xã hội; ổn định di cư, dịch cư theo quy hoạch, phát triển ngành nghề, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, xây dựng nông thôn mới.

Đối với trí thức, tạo điều kiện thuận lợi để thu nhận thông tin, nắm bắt các thành tựu mới của khoa học - công nghệ và văn hoá thế giới, nâng cao kiến thức chuyên môn, trình độ chính trị. Khuyến khích tự do sáng tạo, phát minh, cống hiến. Phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng đúng và đãi ngộ xứng đáng các tài năng. Phát huy vai trò của trí thức trong việc thực hiện các chương trình, đề tài nghiên cứu của Nhà nước và trong việc xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật.

Đối với thế hệ trẻ, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp; tạo việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Đối với phụ nữ, thực hiện tốt pháp luật và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn; có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành; chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện để phụ nữ làm tốt nhiệm vụ người vợ, người mẹ, xây dựng gia đình hạnh phúc.

Đối với cựu chiến binh, phát huy bản chất, truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ xã hội chủ nghĩa; giúp nhau cải thiện đời sống; góp phần giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ.

Đối với các vị lão thành cách mạng, những người có công với
nước, các cán bộ nghỉ hưu, những người cao tuổi, thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất trong điều kiện mới; đáp ứng nhu cầu được thông tin, phát huy khả năng tham gia đời sống chính trị của đất nước và các hoạt động xã hội; nêu gương tốt, giáo dục lý tưởng và truyền thống cách mạng cho thanh niên, thiếu niên.

Đối với các nhà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đề cao vai trò và trách nhiệm đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế - xã hội; khuyến khích và tạo môi trường thuận lợi để kinh doanh và cạnh tranh theo pháp luật; có những hình thức biểu dương công sức của những người quản lý sản xuất, kinh doanh giỏi.

Vấn đề dân tộc có ý nghĩa to lớn trong đại đoàn kết toàn dân và trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, cùng phát triển; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất hàng hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền xuôi và miền núi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến. Có chính sách ưu tiên trong việc đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số. Động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương. Khắc phục tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, đề phòng tư tưởng dân tộc cực đoan.

Về tôn giáo, Đảng coi tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng tôn giáo, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Chăm lo phát triển kinh tế, văn hoá, nâng cao đời sống của đồng bào. Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống "tốt đời, đẹp đạo", phát huy những giá trị tốt về văn hoá, đạo đức của tôn giáo. Nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân. Từng bước hoàn thiện luật pháp về tín ngưỡng tôn giáo.

Đồng bào định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước chăm lo cung cấp thông tin về tình hình quê hương, đất nước, bảo hộ quyền lợi chính đáng của đồng bào, nâng cao lòng yêu nước, ý thức cộng đồng, tinh thần tự trọng và tự hào dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tôn trọng pháp luật nước sở tại và góp phần tăng cường đoàn kết hữu nghị với nhân dân thế giới. Có những chính sách tạo điều kiện thuận lợi để kiều bào về thăm quê hương, mở mang các hoạt động văn hoá, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, sản xuất kinh doanh...

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Nhân dân vừa thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, vừa thực hiện quyền dân chủ thông qua đại diện là các cơ quan nhà nước, các đại biểu nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đảng và Nhà nước xây dựng và hoàn chỉnh các quy chế để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", qua đó tăng cường đoàn kết toàn dân, củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong chế độ ta.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, góp sức xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh; phát huy trách nhiệm và khả năng trong việc tham gia bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện giám sát của nhân dân đối với công tác và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và các cơ quan nhà nước; giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.

Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hoá, hữu nghị, từ thiện-nhân đạo... Sớm ban hành Luật về hội.

Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, khắc phục tình trạng hành chính hoá, quan liêu hoá, xa dân. Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Xây dựng các phong trào quần chúng thi đua yêu nước gắn liền với các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của cả nước và từng địa phương. Hướng mạnh các hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân về địa phương, cơ sở, cộng đồng dân cư và từng gia đình; tăng cường và nâng cao chất lượng sinh hoạt, đáp ứng nhu cầu và lợi ích thiết thực của các đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.

Ix- Đẩy mạnh cải cách và hoàn thiện nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế.

1- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự là trụ cột của hệ thống chính trị và công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Nhà nước ta dựa trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, thể hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Cán bộ, công chức nhà nước phải là đầy tớ trung thành của dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân.

Đổi mới và hoàn thiện Nhà nước gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện ở việc Đảng đề ra đường lối, chủ trương và các chính sách lớn định hướng cho sự phát triển trong từng thời kỳ; lãnh đạo Nhà nước định ra và thực thi Hiến pháp, pháp luật; xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn; kiểm tra việc quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước; nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước. Các cơ quan nhà nước phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân; phát huy vai trò và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và nhân dân trong việc tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát và bảo vệ Nhà nước.

2- Phát huy dân chủ, bảo vệ quyền con người, tăng cường pháp chế, giữ vững kỷ luật, kỷ cương.

Quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện trên mọi lĩnh vực và được thể chế hoá bằng pháp luật, được hoàn thiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí. Cần nâng cao chất lượng quy chế dân chủ đại diện, chất lượng các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, hoàn thiện những quy định về bầu cử, ứng cử, về tiêu chuẩn và cơ cấu các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Tăng thêm tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách, tỷ lệ đại biểu Quốc hội không là đảng viên.

Mở rộng và thực hiện quy chế dân chủ trực tiếp một cách thiết thực, trước hết là ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân thực sự tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng, liên quan đến lợi ích của đông đảo nhân dân.

Nghiên cứu xây dựng Luật trưng cầu ý dân nhằm hoàn thiện cơ chế lấy ý kiến nhân dân và dư luận xã hội về những vấn đề cần thiết cho lãnh đạo và quản lý nhà nước, bảo đảm những quyết sách lớn tiếp thu được trí tuệ và phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Phát huy dân chủ kết hợp chặt chẽ với tăng cường pháp chế, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho toàn dân, gắn quyền với trách nhiệm, lợi ích và nghĩa vụ của công dân, tôn trọng và giữ vững kỷ luật, kỷ cương, trật tự xã hội.
(Còn tiếp)