Du thảo Báo cáo Đại hội đảng VIIII: Chiến luoc phát triển


(Tiếp theo 4)
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt chất lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân. Tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường vững chắc; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản. Vị thế của nước ta trong quan hệ quốc tế được củng cố và nâng cao.

Năm 2010, tổng sản phẩm trong nước (Gdp) tăng gấp đôi so với năm 2000; chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, giảm tỉ lệ lao động nông nghiệp xuống còn khoảng 50%.
Kế hoạch 5 năm 2001-2005 là bước rất quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược 2001-2010 nhằm: Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt chất lượng, sức cạnh tranh và hiệu quả phát triển kinh tế. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về phát huy nhân tố con người, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ. Giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm; cơ bản xoá đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội; xây dựng một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.

Phấn đấu đạt nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước ít nhất 7%/năm.

1- Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm.

- Con đường công nghiệp hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển mạnh công nghiệp, đồng thời đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Trước hết là độc lập tự chủ về đường lối chính trị, chính sách, thể chế, mô hình phát triển kinh tế đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh: có mức tích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp lý; có sức cạnh tranh; có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ; giữ ổn định kinh tế - tài chính vĩ mô; có một số yếu tố vật chất bảo đảm an toàn và điều kiện cơ bản cho phát triển như an ninh lương thực, an toàn năng lượng, dự trữ ngoại tệ, an toàn tài chính, an toàn môi trường, xây dựng kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và một số ngành công nghiệp nặng then chốt...

Xây dựng kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp cho phát triển đất nước.

- Phát triển kinh tế - xã hội nhanh, đồng bộ, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế, tăng sức cạnh tranh. Mọi hoạt động kinh tế được đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp về kinh tế, tài chính, xã hội, môi trường, quốc phòng an ninh. Trước mắt, tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước; đáp ứng về cơ bản các nhu cầu thiết yếu về đời sống nhân dân và yêu cầu trang bị lại cho nền kinh tế và quốc phòng an ninh.

Tăng cường sự chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông- lâm-ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng việc ứng dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ; đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá; đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá và áp dụng công nghệ sinh học... Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, nhất là công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề; chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn.

Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa áp dụng công nghệ tiến bộ, đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao (tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hoá...). Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng then chốt. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc, da - giầy, điện tử và công nghệ thông tin, công nghiệp phần mềm, một số sản phẩm cơ khí... Khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên dầu khí, khoáng sản, vật liệu xây dựng. Ưu tiên phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ; xây dựng một số tập đoàn doanh nghiệp lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hoá.

Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ :
thương mại, kể cả thương mại điện tử, hàng không, bưu chính - viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường... Sớm phổ cập sử dụng tin học và Internet trong nền kinh tế và đời sống xã hội. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, thuỷ lợi, thông tin, điện lực đồng bộ và từng bước hiện đại hoá; phát triển hệ thống cấp nước, thoát nước ở cả thành thị và nông thôn.

Phát triển mạng lưới đô thị, phân bố hợp lý trên các vùng. Hiện đại hoá dần các thành phố lớn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn. Không tập trung quá nhiều cơ sở công nghiệp và dân cư vào các đô thị lớn. Tăng cường công tác quy hoạch và quản lý đô thị, bảo vệ môi trường, nâng cao thẩm mỹ kiến trúc.

Về chiến lược phát triển các vùng, phát huy vai trò của các vùng động lực có mức tăng trưởng cao, tích luỹ lớn; đồng thời tạo điều kiện để phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng vùng, liên kết với vùng động lực tạo mức tăng trưởng khá. Đặc biệt quan tâm phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng miền núi, biên giới, hải đảo. Có chính sách hỗ trợ nhiều hơn cho các vùng khó khăn phát triển kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, xoá đói giảm nghèo..., đưa các vùng này vượt qua tình trạng kém phát triển.

Phát triển mạnh kinh tế biển kết hợp với bảo vệ vùng biển: mở rộng nuôi trồng và đánh bắt, chế biến hải sản, tiến ra biển xa; khai thác và chế biến dầu khí; phát triển vận tải viễn dương, du lịch và dịch vụ; bảo vệ môi trường và an ninh trên biển.

Từng bước hiện đại hoá công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng - thủy văn; có kế hoạch và biện pháp tích cực phòng chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn.

Sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái, trước hết là nước và không khí. Tăng cường công tác quản lý môi trường ở tất cả các lĩnh vực, các vùng, các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện nghiêm chỉnh Luật bảo vệ môi trường.

Cơ cấu nền kinh tế phải đáp ứng yêu cầu giành lợi thế cạnh tranh trên cả thị trường trong nước và ngoài nước. Tạo thêm sức mua của thị trường trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu. Thu hút mạnh hơn các nguồn vốn của nước ngoài (vốn đầu tư trực tiếp, vốn hỗ trợ phát triển chính thức...).

2- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.

Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

Từ các hình thức sở hữu : sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp.

Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế : nắm những vị trí then chốt, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là một công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật.

Trong 5 năm tới, hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời phát triển thêm một số doanh nghiệp mà Nhà nước cần đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng và củng cố một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn; thực hiện giao, bán, khoán, cho thuê... các doanh nghiệp nhà nước loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả. Củng cố và hiện đại hoá một bước đại bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Khẩn trương cải thiện tình hình tài chính và lao động của doanh nghiệp nhà nước.

Đổi mới căn bản phương thức đầu tư vốn của Nhà nước cho các doanh nghiệp thông qua các công ty đầu tư tài chính của Nhà nước và thông qua thị trường vốn. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với tất cả các doanh nghiệp kinh doanh có vốn Nhà nước; giao cho hội đồng quản trị doanh nghiệp quyền chủ sở hữu trực tiếp gắn với quyền tự chủ trong kinh doanh; quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.

Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng : xoá bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh; nộp ngân sách nhà nước đầy đủ và có lãi. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Có cơ chế phù hợp về kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước và của xã hội.

Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các hộ xã viên và sở hữu tập thể (các quỹ sử dụng chung trong hợp tác xã), liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn. Phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành. Nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông nghiệp. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh, mở rộng thị trường, giải quyết nợ tồn đọng. Khuyến khích việc tích luỹ, phát triển có hiệu quả vốn tập thể trong hợp tác xã. Tổng kết việc chuyển đổi hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã. (Còn tiếp)