Đẩy nhanh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước


Hà Nội (TTXVN 5/11/2002)

Từ năm 1992 đến nay, cả nước đã có trên 1000 doanh nghiệp Nhà nước được chuyển đổi sở hữu, trong đó cổ phần hoá gần 900 doanh nghiệp, số còn lại là chuyển giao, bán và khoán kinh doanh.

Chương trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, mà trọng tâm là cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được triển khai thí điểm từ năm 1992. Mục đích của chương trình này là tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có chủ sở hữu là người lao động, để quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, tạo cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp, đồng thời giúp doanh nghiệp có thể huy động vốn trong toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp. Song do chưa có đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này và chưa có hướng dẫn cụ thể nên từ năm 1992 đến hết năm 1997, cả nước mới có 38 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa.

Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước thực sự có bước chuyển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần vào tháng 6/1998, trong đó nêu rõ các chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động tại các doanh nghiệp cổ phần hoá. Nghị định này đã trở thành đòn bẩy đưa lộ trình cổ phần hoá đi nhanh hơn. Từ năm 1998 đến đầu năm 2002, cả nước đã cổ phần hoá trên 800 doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này hoạt động trên 3 lĩnh vực chính thương mại, công nghiệp và xây dựng và được phân bổ ở khắp các vùng, miền trong cả nước.

Theo đánh giá của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước, việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần không chỉ giúp Nhà nước bảo tồn nguồn vốn mà còn tăng đáng kể tỉ suất lợi nhuận trên đồng vốn. Các doanh nghiệp hoạt động năng động, nhạy bén và tự chủ hơn trong kinh doanh. Quá trình cổ phần hoá đã thu hút rộng rãi các nguồn vốn của người lao động cả trong doanh nghiệp và ngoài xã hội, nhờ đó doanh nghiệp có vốn đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất kinh doanh theo chiều sâu. Qua khảo sát hơn 400 doanh nghiệp cổ phần hoá ở 15 tỉnh, thành phố, doanh thu hàng năm của các doanh nghiệp này tăng trung bình 20%, thu nhập của người lao động tăng 21%.

Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những địa phương thực hiện có kết quả việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Từ năm 1992 đến nay, thành phố đã có 104 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá, chiếm 12,5% tổng số doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá của cả nước. Qua khảo sát hoạt động của 22 doanh nghiệp đã cổ phần hoá, doanh thu bình quân hàng năm của các doanh nghiệp tăng trên 41%, lợi nhuận tăng 39,5%, nộp ngân sách tăng 30,9%, cổ tức hàng năm tăng từ 6% đến 24%, thu nhập của người lao động tăng 10,5%, so với trước khi cổ phần hoá.

Công ty cổ phần cơ điện lạnh tại Thành phố Hồ Chí Minh là một minh chứng điển hình của các doanh nghiệp cổ phần hoá làm ăn có hiệu quả. Với số vốn ban đầu 15 tỉ đồng, sau 5 năm cổ phần hoá, vốn của doanh nghiệp đã tăng lên 167 tỉ đồng, doanh thu tăng từ 78,44 tỉ đồng lên 353 tỉ đồng và lợi nhuận tăng gấp 4 lần, thu nhập bình quân hàng tháng của người lao động tăng từ 1,4 triệu đồng lên 2 triệu đồng. Công ty cổ phần bông Bạch Tuyết chỉ có 11 tỉ đồng vốn khi tiến hành cổ phần hoá, sau 1 năm số vốn này đã tăng lên 15 tỉ đồng, doanh thu tăng 22 lần, lợi nhuận tăng 30%.

Mặc dù các văn bản quy phạm pháp luật về cổ phần hoá đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, nhưng vẫn chưa theo kịp với yêu cầu và đòi hỏi thực tế. Đây là nguyên nhân chính làm cho các doanh nghiệp Nhà nước trong diện cổ phần hoá còn băn khoăn và các doanh nghiệp đã cổ phần hoá gặp không ít vướng mắc. Bên cạnh đó, việc thiếu nguồn tài chính để xử lý công nợ cho doanh nghiệp khi cổ phần hoá, định giá doanh nghiệp chưa phù hợp với cơ chế thị trường, thiếu công khai minh bạch trong cổ phần hoá đã làm cho tiến độ cải cách doanh nghiệp chậm hơn so với kế hoạch.

Để đẩy mạnh cải cách, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, sắp tới Nhà nước sẽ đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, trong đó phân định rõ chức năng quản lý của Nhà nước và doanh nghiệp, nhất là các quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp; ban hành chế độ phân phối cổ phần hợp lý; đổi mới phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, giám sát hoạt động kinh doanh và việc chấp hành quy định của Nhà nước tại doanh nghiệp.

Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước cho biết, kế hoạch của Chính phủ đến năm 2005 số doanh nghiệp Nhà nước sẽ rút xuống còn 2000 thay vì 5.600 doanh nghiệp như hiện nay. Tuy nhiên vẫn có thể thành lập thêm doanh nghiệp Nhà nước nếu thực sự cần thiết. Việc thành lập doanh nghiệp này phải được xem xét kỹ lưỡng trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của từng ngành, từng địa phương và theo nguyên tắc chỉ lập mới doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước đối với những ngành và lĩnh vực mà Nhà nước độc quyền, hoặc các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng tham gia.

Về lâu dài, để hệ thống doanh nghiệp Nhà nước thực sự mạnh, giữ vai trò đầu tàu trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Nhà nước sẽ cho phép hình thành một số tập đoàn kinh tế lớn kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc dân. Tập đoàn kinh tế này được thành lập trong một số lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh, khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Trước mắt, nghiên cứu thành lập thí điểm một số tập đoàn về dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng./.